43. Những người phục vụ trong đền thờ gồm có: con cháu Xi-ha, con cháu Ha-su-pha, con cháu Ta-ba-ốt,
44. con cháu Kê-rốt, con cháu Sia-ha, con cháu Ba-đôn,
45. con cháu Lê-ba-na, con cháu Ha-ga-ba, con cháu A-cúp,
46. con cháu Ha-gáp, con cháu Sam-lai, con cháu Ha-nan,
47. con cháu Ghi-đên, con cháu Ga-cha, con cháu Rê-a-gia,
48. con cháu Rê-xin, con cháu Nê-cô-đa, con cháu Ga-xam,
49. con cháu U-xa, con cháu Pha-sê-a, con cháu Bê-sai,
50. con cháu A-sê-na, con cháu Mê-u-nim, con cháu Nê-phu-sim,
51. con cháu Bác-búc, con cháu Ha-cu-pha, con cháu Ha-rua,
52. con cháu Ba-lút, con cháu Mê-hi-đa, con cháu Hạt-sa,
53. con cháu Bạt-cô, con cháu Si-sê-ra, con cháu Tha-mác,
54. con cháu Nê-xia, và con cháu Ha-ti-pha.
55. Con cháu của các đầy tớ Sa-lô-môn gồm có: con cháu Sô-tai, con cháu Sô-phê-rết, con cháu Phê-ru-đa,
56. con cháu Gia-a-la, con cháu Đạt-côn, con cháu Ghi-đên,
57. con cháu Sê-pha-tia, con cháu Hát-tinh, con cháu Bô-kê-rết Ha-xê-ba-im, và con cháu A-mi.
58. Tổng cộng những người phục vụ trong đền thờ và con cháu của những đầy tớ Sa-lô-môn là ba trăm chín mươi hai người.
59. Những người sau đây trở về từ Tên Mê-la, Tên Hạt-sa, Kê-rúp A-đan, và Y-mê, nhưng không thể chứng minh gia tộc và phả hệ của họ có thuộc về dòng dõi Y-sơ-ra-ên hay không:
60. con cháu Đê-la-gia, con cháu Tô-bi-gia, và con cháu Nê-cô-đa, có sáu trăm năm mươi hai người.
61. Con cháu của các thầy tế lễ gồm có: con cháu Ha-ba-gia, con cháu Ha-cốt, và con cháu Bạt-xi-lai (người nầy cưới một trong các con gái của Bạt-xi-lai ở Ga-la-át, nên được gọi bằng tên ấy.)
62. Những người nầy tìm kiếm tên mình trong gia phả nhưng không tìm được nên người ta kể họ là ô uế, và bị truất khỏi chức tế lễ.